Thêm tư liệu về Phật Hoàng Trần Nhân Tông

1. Niên biểu Trần Nhân Tông

+ 11/11 Mậu Ngọ (1258, năm chiến thắng Nguyên - Mông lần thứ nhất): Ngày sinh Trần Nhân Tông. Ông là con trai Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) và là cháu nội Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Ông có tên thật là Trần Khâm.
+ Năm 1279: 22 tuổi. Lên ngôi, thành vua thứ ba đời Trần.
+ Năm 1282: 25 tuổi. Chủ trì Hội nghị Bình Than, Hội nghị của các tướng lĩnh nhà Trần (Trần Quốc Toản bóp cam); cử Trần Hưng Đạo chỉ huy mặt trận Lạng Sơn, bắn Sài Thung, bắt Trần Di Ái (nhà Nguyên phong làm “An Nam quốc vương”!).
+ Năm 1285: 28 tuổi. Chủ trì Hội nghị bô lão Diên Hồng; cử Trần Hưng Đạo thống lĩnh quân đội, đuổi Thoát Hoan, chém Toa Đô ở Tây Kết, Trần Quang Khải viết “Đoạt sáo Chương Dương độ...”, kháng Nguyên lần thứ 2 thắng lợi.
+ Năm 1287: 30 tuổi. Lại cử Trần Hưng Đạo thống lĩnh quân đội. Trần Khánh Dư tiêu diệt thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, Phạm Ngũ Lão đánh Lạng Sơn; trận Bạch Đằng thắng lợi, bắt sống Ô Mã Nhi, chiến thắng quân Nguyên lần thứ 3.
+ Năm 1293: 36 tuổi. Nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (Trần Anh Tông), lên làm Thái Thượng Hoàng.
+ Từ 1293 đến 1295: Nghiên cứu giáo lý Thiền Tông ở phủ Thiên Trường (Nam Định).
+ Từ 1295 đến 1299: Thực tập xuất gia tại hành cung Vũ Lâm (Gia Khánh - Ninh Bình).
+ Ngày 15/8/1299: 41 tuổi. Chính thức xuất gia về Yên Tử (Đông Triều - Quảng Ninh), lấy pháp danh là Vân Hương Đại Đầu Đà (dòng Đầu Đà - dòng khổ hạnh), biệt hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà. Được sơn môn Yên Tử tôn là Giác Hoàng Điều Ngự (vị Hoàng đế giác ngộ đạo Phật của Thích Ca Mầu Ni), sơ khởi pháp phái Thiền Tông Trúc Lâm - Yên Tử.
+ Năm 1301: 44 tuổi. Đi thăm và giảng đạo ở Chiêm Thành, gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân.
+ Năm 1304: 47 tuổi. Chính thức thành lập dòng Thiền Trúc Lâm trong lễ thụ Bồ Tát giới cho cả triều đình, từ Trần Anh Tông đến các vương tôn công tử, trở thành Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm- dòng Thiền “nội địa”, độc lập, của Đại Việt - cũng tức là Giáo chủ Thiền Tông Trúc Lâm.
+ Ngày 1/1/1308: 51 tuổi. Làm lễ truyền đăng, trao y bát Giáo chủ Thiền Tông Trúc Lâm cho Pháp Loa (Tổ thứ hai). Cùng năm, gặp lại Huyền Trân công chúa ở Yên Tử, bí mật về kinh thăm chị là Thiên Thuỵ công chúa bị ốm. Trên đường về Yên Tử, ghé thăm Tuyên Từ Thái hậu cũng đang tu hành ở Bình Dương, gần chùa Sùng Nghiêm.
+ Ngày 16/11/1308 (giờ Tý ngày 03/11 Mậu Thân): Hoá ở am Ngọa Vân (nền khu Tháp Tổ và lăng Quy Đức ngày nay) ở Yên Tử. Tương truyền hiển Phật, để lại 500 viên xá lị (xá lợi), một phần táng ở Thăng Long, một phần nhập Bảo tháp ở giữa lăng Quy Đức bây giờ, theo di ngôn của chính Trần Nhân Tông.
2. Sơ đồ Phật giáo Việt Nam
Từ bé, đã nghe dân gian nói “Hiền như Bụt”, “Lành như Bụt”. “Bụt” vừa hiển lành vừa giỏi, hay cứu giúp người tốt gặp nạn, răn và diệt ác.Tiếng Phạn, Buddha (Bồ Đà) có nghĩa là Phật. Tiếng Hán, đọc là Bôi Đà hay Phật Đà, tiếng Tây cũng đọc là Bu-đa. Tiếng Việt đọc na ná, gọi cho gọn, là “Bụt”. Vậy “Bụt” tức là Phật. Nội suy thì biết, đạo Phật vào Việt Nam, ít nhất cũng từ khi trong từ vựng người Việt có từ “Bụt”. Nhưng chính xác là khi nào?
Sử sách chép rằng, ngay từ năm thứ 2 s.CN, đã có nhiều người nước ngoài đến miền Trung nước ta, trong đó có người Ấn Độ. Khoảng từ năm 187 đến 189, nhà tu hành Ấn Độ- Khâu Đà La (Khâu Đà La, Già la Đồ Lê, Cà La Đồ Chê) - từ Ấn Độ đi giảng kinh ở Trung Hoa rồi qua Việt Nam,
đến tu hành tại Dâu (Bắc Ninh), lập ra sơn môn Dâu. Thế tức là có một con đường từ Ấn Độ để Phật giáo Mật Tông trực tiếp vào Việt Nam trên “Cỗ xe nhỏ” - Tiểu thừa.Lúc ấy nước ta còn nhỏ, dân ta ít, chế độ phong kiến sơ kỳ còn lỏng lẻo, sơn môn Dâu chủ yếu phát huy ảnh hưởng trong dân gian. Mà quan niệm dân gian về Phật giáo thì thật là đơn giản. Họ coi Phật là người ban phát cho họ những điều tốt đẹp mà họ cầu xin trong cuộc sống hàng ngày, từ nhỏ đến lớn.Có lẽ vì thế mà Phật giáo trong dân gian nghiêng về phần mê tín- phù chú, cầu xin tài, lộc, phúc, thọ hơn là tu hành thoát tục. Tính đơn giản và thực dụng ấy còn mãi cho đến bây giờ trong tâm lý tôn giáo người Việt. Nó gần như đã trở thành một nét tính cách, ẩn hiện dưới các tục lệ, lễ nghi Phật giáo Việt Nam.
Mặt khác, cùng với sự bành trướng của phong kiến Trung Hoa, đặc biệt là từ các đế chế Tần - Hán, Phật giáo Trung Hoa trên “Cỗ xe lớn” - Đại thừa - tràn vào Việt Nam theo cách “chính quy” hơn nhiều và đậm đà màu sắc Thiền Tông.
Ta biết, đạo Phật đến Trung Hoa từ lâu, nhưng Phật giáo Trung Hoa trước Đường (618-927) cũng chưa hoàn chỉnh vì chưa có chân kinh, vì thế mà sau đó Đường Tam Tạng phải sang Tây Thiên lấy về.Trước Đường là Hán, trước Hán là Tần, trước Tần là Chiến Quốc - Xuân Thu, trước nữa là Tây- Đông Chu, thì Phật giáo Trung Hoa còn đang phải vật lộn để tranh giành ảnh hưởng với Nho giáo, Lão giáo. Phật giáo Trung Hoa chỉ thực sự hoàn chỉnh cách đây già một ngàn năm, kể từ Đường. Già một ngàn năm ấy, cùng và từ thời Bắc thuộc, Phật giáo Trung Hoa, Nho giáo và Lão giáo, đặc biệt ảnh hưởng tới cung đình Việt Nam và tầng lớp trí thức của nó.
Có sự sùng bái, ủng hộ, tổ chức của cung đình Việt Nam, đặc biệt từ giai đoạn tập quyền, Phật giáo Thiền Tông Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, để đến thời Lý - Trần, thì trở thành quốc giáo. Lý Thánh Tông từng đứng đầu tông phái Thảo Đường. Trần Anh Tông cho cả triều thụ Bồ Tát giới...
Hai trước tác cổ nhất về Phật học Thiền Tông ta còn lưu giữ được ở kho sách cổ của mình, là cuốn “Khoá Hư lục” (Những ghi chép về phép tu dưỡng đạo Hư tịch) và cuốn “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” (Trần Tung anh ruột của mẹ thân mẫu Trần Nhân Tông).Ngoài ra, còn thơ, kệ, ngữ lục của Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang v.v...
Đến thời Hậu Lê và Tây Sơn, Phật giáo vẫn phát triển với nhiều chùa được xây dựng, nhiều tượng được làm.
Nhưng có thể nói, Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Thiền Tông, có “phong độ” cao nhất vào nửa đầu đời Trần (1226-1400) mà nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam là Trần Nhân Tông, với việc từ giã cung đình, về Yên Tử tu hành và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền độc lập, “nội địa”, đặc sắc.
3. Trần Nhân Tông- ông vua hoá Phật, người đã “chọn” tất cả
Là một trong ba ông vua đầu đời Trần, lại là một trong ba ông vua anh hùng bình Nguyên - ông và cha đã trực tiếp lãnh đạo và lên ngựa trong cuộc bình Nguyên lần thứ nhất (1258), còn mình thì lãnh đạo và “thân ra trận” trong hai cuộc bình Nguyên sau đó (1285 và 1288) - “Hào khí Đông A” hẳn còn tràn ngập trong huyết quản Trần Khâm.
Theo Nho học, lẽ ra Trần Nhân Tông chỉ “phải” làm vua. Mà làm vua thì lúc nào cũng chỉ có hai việc lớn: ngoài, thì phòng ngoại xâm - bang giao để tránh chiến tranh, nếu có giặc thì dẹp giặc; trong, thì vỗ về trăm họ, xây dựng xã tắc thái bình thịnh trị. Thế là đủ vinh quang, vinh hiển, đế vương rồi (mà ông cũng đủ vinh quang, vinh hiển, đế vương rồi chứ?).
Nếu bảo cần lo cho "nước có đạo”, thì đạo đã có sẵn - Đại thừa và Tiểu thừa đều có thể dùng để hướng thiện cho dân. Nho và Lão cũng không dở - mô hình xã hội, mối giường phong kiến vốn đã chặt chẽ; chuyện thần tiên cũng chẳng thiếu gì.
Thế thì vì sao lại “nhiễu sự” ra thế, để bỏ cung vàng điện ngọc mà tìm non xanh nước biếc, bỏ lụa là mà mang áo vải, bỏ hài gấm giày nhung mà chân trần dép cỏ, bỏ ngự yến mà hái măng rừng, bỏ mỹ nữ cung tần mà dấn thân cô độc, bỏ quyền hành mà trông vào ngộ ngữ, bỏ sắc tìm không???
Ta hãy bắt đầu từ Trần Thái Tông, ông nội của Nhân Tông.
Thái Tông Trần Cảnh, lúc 8 tuổi, được Trần Thủ Độ (chú họ) bố trí hầu cận Lý Chiêu Hoàng, rồi thành chồng của nữ vương cuối triều Lý này. Ngày 10/1/1226, Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng- nhà Trần thay Lý trị vì. Năm 1237, tức 11 năm sau, Trần Thủ Độ ép Thái Tông giáng Chiêu Hoàng làm công chúa để Thái Tông lấy Thuận Thiên, vợ Trần Liễu (anh ruột Trần Cảnh), đã có mang 3 tháng và lập làm Hoàng hậu! Thủ Độ còn ép Lý Huệ Tông phải tự vẫn!
Những việc làm của Trần Thủ Độ, có lợi cho họ Trần, làm cho quốc gia kịp hưng thịnh để kháng Nguyên sau đó, nhưng chắc chắn đã gieo vào tâm hồn ông vua trẻ, nhân hậu, ham nghiên cứu Nho học và Phật học như Thái Tông, nhiều câu hỏi khó giải đáp về thân phận con người và về ý nghĩa của cuộc đời. Tôi cứ nghĩ, có lẽ suốt thời ở ngôi, rồi lúc bỏ ngôi trốn đi tu không thành ở Yên Tử và phải trở về Thăng Long “Miễn cưỡng lên ngôi” trở lại, rồi lúc ngồi viết kệ, làm thơ, viết lời tựa “Thiền Tông chỉ nam”, viết “Khoá Hư lục”, rất nhiều lần Thái Tông đã tự hỏi như Hăm - lét bên trời Tây: “Tồn tại hay không tồn tại?”. Giá ai có tài để viết một vở bi kịch về một ông vua Việt, có lẽ Thái Tông là nhân vật rất thích hợp. Trong lời tựa “Thiền Tông chỉ nam”, Thái Tông cũng nói, ông thích nhất là kinh Kim Cương- bộ kinh giúp người ta dẹp bỏ phiền não, nhanh chóng đến bờ chính giác.
Thái Tông mất năm 1277 (thọ 59 tuổi), khi Nhân Tông 19 tuổi. Sau này, Ngô Thì Sĩ viết rằng: “Thái Tông ý tứ gần với đạo Hư tịch mà chí thì rộng xa, cao siêu, cho nên bỏ ngôi báu như trút đôi dép rách vậy”. Ngoài ảnh hưởng của những trước tác mà Thái Tông để lại, chắc chắn Nhân Tông đã được ông nội mình dạy dỗ, tâm sự, bàn luận về thế thái nhân tình và về Phật học rất nhiều.
Bây giờ, nói về “Tuệ Trung Thượng Sĩ” Trần Tung, một con người, một nhà Thiền học quan trọng đời Trần, người có ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng của Nhân Tông.
Trần Tung (1230-1291) là con trai trưởng Trần Liễu, anh ruột của Trần Hưng Đạo, anh ruột của Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm- vợ Trần Thánh Tông, mẹ của Nhân Tông.Trong cả ba cuộc kháng Nguyên, Trần Tung đều tham gia cầm quân đánh giặc, được phong tước Hưng Ninh Vương. Ít lâu sau ông lui về trang ấp của mình, dựng “Dưỡng Chân trang”, tiếp tục ham thích cũ là tham cứu Thiền học, “không hề quan tâm tới công danh sự nghiệp”.Ông để lại phần “Ngữ lục” và khoảng 50 bài thơ, in trong “Thượng Sĩ ngữ lục”. Trần Tung được Thánh Tông quý trọng, tôn là “sư huynh”, ban cho tên hiệu là “Tuệ Trung Thượng Sĩ” và sau này cũng được Nhân Tông yêu kính đến mức, nhà vua tự tay hiệu đính “ngữ lục”, lại còn tự tay viết “Thượng Sĩ hành trạng” nữa.
Trong tác phẩm vừa nói, Nhân Tông kể rằng, một lần Thái hậu (mẹ Nhân Tông) mời tiệc Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thấy Thượng Sĩ ăn thịt bình thường, Thái hậu bèn hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt, sao thành Phật được?”, Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh, anh chẳng cầu làm Phật, Phật chẳng cầu làm anh”. Chính ông cũng nói với Thái Tông: “Đạo Phật cấm sát sinh, song giết giặc cứu dân không có gì là trái đạo... ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối, ở đâu tu cũng được, tu thì lâu cạo đầu mấy chốc? Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa...”. Ông còn viết: “Trì giới và nhẫn nhục - Thêm tội chẳng thêm phúc - Muốn không tội, được phúc- Đừng trì giới nhẫn nhục” v.v...
Có thể nói, không ai phóng khoáng, ít bị câu nệ vào giáo lý, giáo pháp như Trần Tung trong việc tham Thiền. Trong bài thơ “Thị chúng” (Gợi bảo mọi người), ông viết: “ Thế gian ưa dối không ưa thực - Cái tâm thực, dối cũng đều là bụi cả - Nếu muốn vượt qua sông mê để đến bờ giác ngộ - Hãy cố mà hỏi đứa trẻ con ngay trước mặt”. Tuệ Trung Thượng Sĩ muốn nói rằng, tính ngây thơ, hồn nhiên, chưa bị “sắc tướng” làm hỏng, là phẩm chất kẻ chân tu. Trong bài “Thị học” (Gợi bảo người học đạo), ông viết: “ Người học đạo rối bời chưa biết làm thế nào - Đem gạch mài vào gạch thật khổ sở - Nói cho anh biết, đừng có tựa vào cổng nhà khác - Chỉ một chấm sáng mùa xuân đủ cho hoa nở khắp chốn”. Ông muốn bảo mọi người, ngồi Thiền không thì không thành Phật, như là mài gạch ngói mãi cũng không thể thành gương được. Trực cảm tâm linh mới là quan trọng. Trong bài “Ngẫu tác” (Chợt hứng viết ra), ông viết: “Ngồi ngay ngắn giữa nhà không nói - Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân (ngọn núi thần) - Khi nào mỏi mệt thì tâm tự tắt - Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần thiền”. Thế tức là, việc có “Con mắt tuệ” để nhìn thấy “Ngọn khói trên núi Côn Luân”, quan trọng hơn là niệm Phật với ngồi Thiền... Nhân Tông cũng viết rằng, ông “bừng tỉnh, tự xốc áo tôn Thượng Sĩ làm thày”, vì đã “chịu ơn dạy dỗ” nhiều của Thượng Sĩ.
*
Trở lại với Trần Nhân Tông. Là một ông vua anh hùng, lại sùng bái Thiền học, sự mâu thuẫn, day dứt giữa "xuất” và “xử” là tất yếu. Rất giống với Thái Tông (bị chia xẻ trách nhiệm với dòng họ, với sơn hà - xã tắc, với vinh quang có sẵn ba đời, với giáo lý Nho học và những ảnh hưởng của thời đại Phật học bắt đầu mạnh từ Lý cùng những trải nghiệm cá nhân), Nhân Tông đã chọn tất cả: “Hiếu tử” - “Minh vương”- “Nghiêm phụ” - “Thi sĩ” - “Thiền gia” - “Thiền sư” - “Giáo chủ”, và... “hiển Phật” như dân gian truyền kể. Nhưng hướng Phật, có lẽ là tâm niệm suốt đời của ông.
Sử kể rằng, năm 1279, đang là Thái tử đương triều, khi theo cha (Thánh Tông) về thăm Yên Tử, ông đã xin được ở lại đây tu hành, Thánh Tông nổi giận mắng rằng: “Chí làm trai tựa chim hồng chim hộc, sơn hà xã tắc đè nặng hai vai, đâu để học đòi Thái tử Tất Đạt Đa lên non xanh cắt tóc”. Và, khi trở về kinh, Thánh Tông vội cử lễ truyền ngôi cho ông. Không muốn, nhưng nhận trọng trách, tạm gác chí riêng, vâng lời cha, thế là “Hiếu tử”.
Lên ngôi, ông củng cố sức mạnh quốc gia, dùng hiền tài, đánh thắng quân Nguyên hai lần - tức là hai lần đánh thắng một đế quốc mạnh loại nhất thế giới lúc bấy giờ - lại tiếp nối mạnh mẽ sự nghiệp Nam tiến có từ thời Lý, thế là “Minh quân”.
Năm 1301, ở Chiêm Thành về, nghe tin Anh Tông lơ là triều chính, ông đột ngột về kinh, với tư cách của một Thái Thượng Hoàng, ông triệu “vua con” đến quở trách, định truất ngôi. Nhờ triều thần can gián và Anh Tông biết lỗi, ông tha cho nhưng răn rằng: “Đạo làm vua, hãy biết xem đất nước là của công chứ không phải của riêng mình. Hãy biết xem thiên hạ là nhà của chính mình”. Xem sổ, thấy Anh Tông ban chầu quá nhiều, ông hỏi: “Có một nước chỉ nhỏ bằng bàn tay mà sao lại ban chầu nhiều thế?”. Ông lại khuyên Anh Tông hãy tu dưỡng tâm tính, kiềm chế lòng dục, xa rời tửu sắc, giữ vững chân tâm, thực hành 10 điều thiện để mài dũa đức hạnh. Thế là “Nghiêm phụ”.
Với tư cách một “Thi sĩ”, Nhân Tông vừa hùng tráng vừa sâu sắc: “Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ/ Hoan Diễn ta còn mười vạn quân” (Tức sự II). Hoan Diễn, từ An Dương Vương về trước là một vùng thuộc đất Việt Thường rồi trở thành hai trong 15 Bộ của nước Văn Lang là Bộ Hoài Hoan và Bộ Cửu Đức. Bộ Hoài Hoan ở phía Bắc Nghệ An, tức là Diễn Châu cổ. Bộ Cửu Đức gồm Nam Nghệ An và toàn bộ Hà Tĩnh. Thời thuộc Hán, hai Bộ này hợp thành Huyện Hàm Hoan thuộc Quận Cửu Chân. Thời thuộc Đông Ngô, hai Bộ trên lại bị tách ra khỏi Quận Cửu Chân, đặt tên là Quận Cửu Đức. Thời thuộc Lương (502 - 577), Quận Cửu Đức bị chia thành 3 Châu : Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu. Khi thuộc Tùy, Đức Châu thành ra Hoan Châu, Lỵ Châu thành ra Trí Châu (598), rồi lại gộp cả 3 châu ấy thành Quận Nhật Nam. Thời thuộc Đường, Quận Nhật Nam bị chia thành 4 Châu : Đức Châu, Lạo Châu, Minh Châu, Hoan Châu. Năm 627, cũng thời nhà Đường, Đức Châu đổi thành Hoan Châu, còn Hoan Châu trước thì đổi thành Diễn Châu.Đời Lý Thái Tông, năm 1030, lập Hoan Châu thành Nghệ An Châu Trại, sau đổi thành Trại Nghệ An, rồi Nghệ An Phủ, cuối cùng là Nghệ An Thừa Tuyên.Năm 1490, Lê Thánh Tông đổi Nghệ An Thừa Tuyên thành Xứ Nghệ An (gọi tắt là Xứ Nghệ, giống như Xứ Kinh Bắc, Xứ Sơn Nam, Xứ Đông, Xứ Đoài...) và đưa Diễn Châu nhập vào Xứ Nghệ.
Năm 1831, vua Minh Mạng nhà Nguyễn tách Xứ Nghệ ra làm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Lúc đó, cương vực Xứ Nghệ là rộng nhất trong lịch sử, gồm 11 Phủ. Thời Pháp thuộc, khi vẽ bản đồ Đông Dương, người Pháp cắt 5/11 Phủ kia về Lào, phần còn lại mới là lãnh thổ Nghệ An và Hà Tĩnh bây giờ.Cho nên, ta phải hiểu chữ “Hoan Diễn” trong thơ Trần Nhân Tông là Nghệ An Thừa Tuyên xưa, là Xứ Nghệ xưa, vốn gồm Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ và cả 5 Phủ mà người Pháp đã cắt cho Lào. Và, muốn có “Mười vạn quân” như Trần Nhân Tông nói, thì dân số Xứ Nghệ thời ấy phải là dăm chục vạn!
Sự hùng tráng và sâu sắc trong thơ Trần Nhân Tông còn hiển hiện ở những câu thơ sau : “Trần triều ngựa đá hai phen mỏi/ Non sông ngàn thuở vững âu vàng” (Tức sự I), “Quân cấm vệ oai nghiêm nghìn cửa/ Đủ trăm quan, áo mũ thong dong/ Lính già tóc trắng như bông/ Còn đang kể chuyện Nguyên Phong thuở nào” (Ngày xuân viếng Chiêu lăng). Thơ Đường xưa có bài “Hành cung cũ” của Nguyên Chẩn : “Hành cung giờ tàn tạ/ Hoa đỏ nở âm thầm/ Cung phi già rỗi việc/ Ngồi kể chuyện Huyền Tông”. Huyền Tông tức là Đường Minh Hoàng, vua thời Thịnh Đường, người có mối tình vô cùng đẹp đẽ và vô cùng bi thảm với Dương Quý Phi. Trần Nhân Tông rất thạo thơ Đường nên đã “đoạt thai hoán cốt” hai câu thơ sau của Nguyên Chẩn để ca ngợi hào quang dài lâu của nhà Trần, khi đi viếng lăng ông nội mình (Thái Tông) như vậy!
Bên cạnh đó, thơ ông cũng vừa thuần Việt vừa uyển nhã, thâm thuý, dù dùng chữ Hán : “Chùa đóng cổng, đa già im bóng/ Tiếng ve đầu, như tứ thu gieo” (Thơ đề ở nhà thủy tạ chùa Phổ Minh); “Về Động Thiên vãn cảnh/ Hoa héo trên cỏ buồn/ Trời thương nơi hiu quạnh/ Thi thoảng, thả hồi chuông” (Trên hồ Động Thiên); “Mây còn che ngang núi/ Nắng chưa đầy ngõ hoa.../ Tựa hiên, nâng sáo ngọc/ Trăng chan hòa ngực ta” (Lên núi Bảo Đài); “Thức dậy, vén màn trông hoa rụng/ Oanh ngừng, xuân cạn, dạ người đau” (Nỗi buồn nơi phòng khuê); “Chùa xưa chiều buông vương sương mờ/ Chuông ngân, thuyền câu về lơ thơ/ Nước trong, núi lặng, cò bay trắng/ Mây chậm, cây rừng chớm nhuộm thu” (Cảnh chiều ở Lạng Sơn); cây mai của Nhân Tông cũng rất Việt : “Tuyết sớm, không sờn gan sắt đá/ Khăn trơn, quần mộc đón xuân về” (Cây mai - Hoa mai trắng muốt thành ra “lụa bạch”, thân mai nâu sẫm thành ra “quần mộc” thì trong thơ Đường không có!); “Đèn rọi lưng song, sách ngập giường/ Sân thu mát rượi móc cùng sương/ Tỉnh nghe chày vải từ đâu vọng/ Trăng về, vòm quế ngạt ngào hương” (Trăng); “Rượu ngon một chén, tan sầu muộn/ Nằm trên chiếu trúc, ngủ long sàng/ Trời tựa ban ngày, trăng trong vắt/ Song ngập hoa xuân gọi mộng vàng” (Đêm 11 tháng Hai); “Ai trói đâu mà xin giải thoát/ Không phàm, sao phải ước thần tiên/ Vượn nhàn, ngựa mỏi, người lên lão/ Vẫn một am mây, một gối Thiền” (Mấy lời trong am núi - Bài I); “Thị phi rụng hết theo hoa sớm/ Lợi danh trôi sạch bởi mưa đêm/ Hoa hết, mưa ngừng, sông núi lặng/ Lại một xuân tàn theo tiếng chim” (Mấy lời trong núi - Bài II); “Xinh xinh cánh bạc nhụy vàng/ Sánh cùng vẩy cá, ngang hàng san hô/ Đông, như băng tuyết trên hồ/ Xuân sang còn vẫn chưa mờ sắc hương” (Mai nở sớm - Bài I); “Năm ngày ngại rét, lười ra cửa/ Gió xuân thăm mai vườn trước ta/ Mặt nước tan băng, cây ngả bóng/ Chưa ấm, đầu cành đã nặng hoa” (Mai nở sớm - Bài II); “Xuân tàn, lá rậm hoa thưa/ Trời quang, đường sá sau mưa sạch làu.../ Phổ Minh, cảnh cũ thân yêu/ Phụ hoàng để bóng canh chiều, tường đêm” (Phủ Thiên Trường - Nhớ vua cha, Trần Thánh Tông, đến nỗi khi ăn chiều thì thấy bóng cha trong bát canh, đêm về lại thấy bóng cha trên tường nhà! Thơ Đường không có câu thơ nào như vậy!); “Sương mờ khói nhạt quanh thôn/ Bóng làng mờ tỏ, hoàng hôn buông rồi/ Trâu về hết, sáo lên khơi/ Đồng không, cò trắng từng đôi đậu về” (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường); “Cầu hoa soi bóng vào suối nhỏ/ Bờ nước, tà dương rớt cuối thu/ Rừng núi im lìm buông lá đỏ/ Móc đưa, mây chở tiếng chuông chùa” (Chiều thu ở Vũ Lâm); “Liễu rậm, chim về thong thả hót/ Mây chiều in bóng trước thềm hoa/ Khách đừng hỏi chuyện nhân gian nữa/ Tựa hiên, chân trời xanh đằng xa” (Cảnh xuân); “Giấc tàn, đẩy cửa nhòm song/ Lòng còn chưa biết xuân hồng vừa sang/ Một đôi bướm trắng vội vàng/ Bay về hoa, giữa mênh mang đất trời” (Sớm xuân)...; thật chẳng thua gì cái tinh thần, cái tài hoa của Vương Duy, Đào Uyên Minh! Phẩm chất Thi sĩ của ông sánh cùng Nguyễn Trãi. Ngay trong “kệ” của Nhân Tông cũng rất nhiều chất thơ : “Rừng vườn vắng vẻ không người quản/ Mận trắng đào hồng riêng tự hoa”..., “Đợi triều bên bể, trăng gần mọc/ Nghe sáo thuyền câu, khách nhớ nhà”..., “Cò trắng dưới đồng, ngàn điểm tuyết/ Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa” (Sư đệ vấn đáp - Bản dịch của Băng Thanh).
Với tư cách một “Thiền gia”, ông để lại nhiều kệ, thơ Thiền, ngữ lục. Ông viết: “Câu hữu câu vô/ Lập tông phái, ý chỉ/ Cũng là dùi rùa, đập ngói (dùi mai rùa lấy lửa, đập ngói thay xay giã gạo cũng chỉ là các động tác ngoại hình mà thôi), “Câu hữu câu vô/ Khiến người rầu rĩ/ Cắt đứt mọi duyên trần quấn quít như cây leo/ Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”, “Bụt ở trong nhà - chẳng phải tìm xa”, “Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo- Đói thì ăn, mệt thì ngủ - Trong nhà sẵn của báu thì đừng tìm đâu khác - Đối diện với cảnh (sắc tướng) mà vô tâm, thì không phải hỏi Thiền nữa”. Khi Bảo Sái hỏi ông: “Như thế nào là Phật?”, ông nói: “Như cám dưới cối” v.v. và v.v...
Nhân Tông, rõ ràng đã chịu ảnh hưởng rất trực tiếp, rất sâu sắc từ Trần Tung, từ một thứ Thiền học giản lược, thực tiễn mà không kém phần sâu xa và chính ông cũng đã trở thành một lý luận gia quan trọng của Thiền Tông Trúc Lâm - Thiền Tông Đại Việt.
Là một “Thiền sư”, Nhân Tông đã thu phục được giới tu hành, tập trung được họ dưới ngọn cờ của dòng Thiền Trúc Lâm mà ông là Tổ thứ nhất. Ông đào tạo nhiều môn đồ giỏi, lại chọn được những người giỏi nhất để truyền y bát, khiến dòng Thiền này phát triển mạnh mẽ.Chính ông đã sáng lập ra Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm mà ông là “Giáo chủ”, một giáo hội nội địa, thống nhất, thuần khiết, tránh được mọi sự phân liệt có thể gây tổn hại cho cả đạo lẫn đời.Công sáng tạo, sáng lập ấy là vô cùng lớn đối với thời đại và dân tộc. Việc ông “hiển Phật”, dù chỉ là huyền thoại, thì cũng cho thấy sự ngưỡng vọng của chúng tăng ni và Phật tử cả nước, của toàn dân nữa, đối với ông.
Đến đây, ta hãy trở lại vấn đề “bỏ sắc tìm không” của Nhân Tông.Bị ràng buộc, bị chia xẻ tâm trí như vậy, nếu không phải là một trí thức lớn - có nghị lực, ý chí, khát vọng và tài lớn; có tâm niệm bền bỉ, có tâm hồn mềm mại và tính cách khoan hoà - thì không thể nào làm được ngần ấy việc. Ông giống ông nội Thái Tông ở chỗ có thể “bỏ ngôi báu như trút đôi dép rách vậy”, nhưng ông nhanh hơn, gặp thời hơn Thái Tông ở chỗ, ông bỏ ngôi thành công để đi theo cái khát vọng thời trai trẻ, tìm kiếm câu trả lời cho kiếp nhân sinh. Ông đã sáng lập cho quốc gia một giáo hội, một tông phái Thiền dân tộc, đẩy đời sống tinh thần, đẩy sự cố kết trăm họ - chúng sinh, lên vượt bậc, bằng sự điều hoà các Phật phái ngoại lai, bổ sung cho nó cái chất tự nhiên, thực tiễn, giản dị mà sâu sắc kiểu Việt Nam, để Phật giáo ta đã “không Hoa, không Ấn”, lại rất có ích cho chúng sinh - dân tộc.Từ đời Trần, từ ông, văn hoá, kiến trúc, triết học... tức là cái “thượng tầng” của người Việt, trở nên rực rỡ, đường bệ hơn trước nhiều.Có lẽ, ông là nhà vua đầu tiên hiểu rằng, một dân tộc chưa có triết học - tôn giáo - tư tưởng của riêng mình, là một dân tộc chưa trưởng thành, thiếu tự tin, “chưa tiến hoá hết”? Và vì thế, ông đã bỏ ngôi lên núi, để nhận lấy cái trách nhiệm của một nhà hiền triết - thông thái - học giả bậc thầy trong lĩnh vực này. Không những thế, ông còn trở thành lãnh tụ - “Giáo chủ” của Thiền phái Trúc Lâm, phái Thiền thuần Việt duy nhất đáng kể cho đến tận ngày nay. Những câu: “Phật pháp bất ly thế gian pháp”, “Cư trần lạc đạo” là rất đúng với ông, với cả cộng đồng nữa.
Chính vì những lẽ đó, Trần Nhân Tông phải được coi là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch trình phong kiến Việt Nam và cũng là nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam, một trong những niềm tự hào lớn nhất của dân ta. . /.
(Theo ĐỖ TRUNG LAI)